Tổng số lượt KHÁCH xem trang

THUỐC CHỐNG RỤNG HOA/BÔNG MAI, BÔNG GIẤY, SỨ THÁI LAN, ĐỖ QUYÊN (SUPER A..Z)


THUỐC CHỐNG RỤNG HOA/BÔNG MAI, BÔNG GIẤY, SỨ THÁI LAN, ĐỖ QUYÊN (SUPER A..Z)

Thuốc chống rụng bông mai của chúng tôi đã có mặt ở thị trường Tây Nam bộ từ những năm '90 của thế kỷ trước và đến năm đầu tiên của thiên niên kỷ nầy Bộ Nông Nghiệp & PTNT với quyết định QĐ 6523/QĐ-BNN-KHCN ngày 19/12/2001 đã “CÔNG NHẬN SẢN PHẨM NẦY LÀ MỘT BIỆN PHÁP KỸ THUẬT MỚI ĐƯỢC PHÉP SẢN XUẤT, KINH DOANH VÀ XUẤT KHẨU THEO QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH” và tiếp theo đó đã đưa sản phẩm nầy vào”DANH MỤC PHÂN BÓN ĐƯỢC PHÉP SẢN XUẤT, KINH DOANH VÀ SỬ DỤNG Ở VIỆT NAM ” liên tục cho đến ngày nayNhư vậy cho đến thời điểm nầy, chỉ có Thuốc chống rụngbông mai Super A-Z của DNTN THẢO TRÂM là được Bộ NN&PTNT côngnhận đạt hiệu quả kỹ thuật cao và tính pháp lý của sản phẩm thuốc chống rụng bông mai là một sản phẩm độc đáo của DNTN THẢO TRÂM được bà con xa gần trong cả nước biết đến hơn 20 năm qua nhất là khu vực Nam bộ, nơi mà thị trường sản xuất và tiêu thụ hoa mai mạnh nhất trong cả nước.Thuốc đã qua thử thách hằng chục năm rồi

xem chi tiết>>>


Thứ Ba, 15 tháng 10, 2013

Công Trạng Chưa Tròn Của Võ Đại Tướng


Thiên Lôi
 13-Oct-2013
LTS: Trong lúc toàn dân từ Bắc chí Nam đều hướng về tang lễ cho cố Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trong bùi ngùi thương tiếc, thì kiều dân Vatican ở Nghệ An tìm cách đánh trống lảng, triệu tập giáo dân để phô trương lực lượng dưới lá cờ Vatican. Họ không hề đồng hành với bất cứ một cái gì thuộc về dân tộc. Với những hình ảnh xúc động tràn ngập trên net cả tuần qua, họ làm như không nghe thấy chi cả. Rõ là những người không thể đoàn kết với dân tộc.

Dòng người tràn ngập Phố Hàng Chuối, Hà Nôi, để tiễn đưa Đại Tướng Võ nguyên Giáp ngày 12 tháng 10, 2013

Biển người tràn về nha Tang Lễ ngày 12 tháng 10, 2013 để tiễn đưa Đại Tướng Võ Nguyên Giáp

Cùng ngày Ở miền Nam, dân chúng cũng lũ lượt kéo về Dinh Thống Nhất để tiễn đưa Đại Tướng về lòng đất Mẹ
trong khi đó...50 ngàn giáo dân hiệp thông ở Thuận Nghĩa, cầm cờ Vatican xuống đường biểu dương lực lượng dân Chúa dưới cờ Vatican tiếp sức cho cuộc gây rối ở giáo xứ Mỹ Yên
Một mặt thì dửng dưng với đại tang của toàn quốc, một mặt lại liên kết đồng điệu với các con chiên hải ngoại tung ra những bài vở gièm xiểm nhằm hạ giá cố Đại tướng. Họ chối phăng những thành tích lẫy lừng của Đại tướng đối với dân tộc và đất nước, bởi vì những điều đó bất lợi cho Vatican. Họ chê bai tất cả những gì họ biết được về Đại tướng, cả những đức tính khiêm nhượng và nhẫn nhục của Đại tướng, bởi vì những thứ đó đều gây khó chịu cho Vatican. Họ nhạo báng cả những biển người tràn ra đường bày tỏ sự kính trọng đối với vị bảo quốc anh hùng của Việt Nam, bởi vì những cảnh đó đều bất lợi cho Vatican. Không còn chối cãi vào đâu được nữa. Họ là kẻ nội thù của dân tộc nằm trên quê hương của chúng ta. Miệng họ nói lời Chúa "Nước Ta không thuộc về thế gian này", nhưng năm này qua năm khác, ho tìm mọi mưu kế để chiếm đoạt đất đai trên quê hương của dân Việt cho Vatican. Đó cũng là cảm tưởng trong bài của tác giả Thiên Lôi. Kính mời bạn đọc. (SH)

Đại Tướng Võ Nguyên Giáp là một Anh Hùng của dân tộc Việt Nam và thế giới bị thực dân đô hộ, đã được lịch sử ghi công vinh hiển, đã được các thức giả thế giới, cả bạn lẫn đối nghịch đều ca tụng như một thiên tài quân sự của nhân loại ở thế kỷ 20.
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp mất một cách thanh thản vào lúc 6 giờ chiều ngày Thứ Sáu 4 tháng 10 năm 2013 tại Quân Y Viện 108, thủ đô Hà Nội, thọ 102 tuổi trong sự tiếc thương vô vàn của con dân Việt.
Nhân dịp này, báo đài trong và ngoài nước đã đăng tải rất nhiều tư liệu lịch sử liên hệ đến cuộc đời và các chiến tích oai hùng của Võ Đại Tướng.
Lại nữa, còn có nhiều phóng sự tường thuật liên tục rừng người đến viếng tang tại tư gia của Võ Đại Tướng ở số 30 đường Hoàng Diệu với tình cảm chan hòa thương tiếc đầy xúc động của dân cả nước.
Ông xứng đáng được hưởng lòng tôn sùng thành kính lên hàng bậc thánh của nhân dân. Võ Đại Tướng đã được tạc danh vàng vào hàng ngũ những nhà lãnh đạo kiệt xuất của lịch sử nước nhà cùng với Hồ Chủ Tịch, Quang Trung, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Trần Thủ Độ, Lý Thường Kiệt, Ngô Quyền …
Riêng tôi, tôi lại đánh giá sự nghiệp giải phóng dân tộc của Võ Đại Tướng ở một mức độ hơn hẳn, bởi vì thời thế lúc sinh thời của Võ Đại Tướng đã vô cùng phức tạp và khó khăn gấp vạn lần
Tuy vậy tôi vẫn lấy làm tiếc là Võ Đại Tướng đã không thừa thắng xốc tới dẹp luôn mối đe dọa của một đế quốc hung hãn, tàn độc, gian manh hơn đối với sự ổn định, phát triển và trường tồn của dân tộc; đó là Đế quốc Ca-tô Rô Ma mà đầu não phong kiến độc tài vẫn còn tồn tại ở Vatican dù những đế quốc thực dân Nhật, Pháp, Mỹ đã lụi tàn.
Trong nước thì dẹp tan những ổ tập trung của đạo quân thứ 5 nằm vùng, giả dạng làng đạo, xóm đạo ... Truy lùng những ổ gián điệp, cô lập những tên đầu não giả dạng tu sĩ. Buộc trao trả những đất đai cướp được phi pháp dựa hơi ngoại bang, nhất là những nơi thờ tự cũ bị phá hủy ... Bên ngoài thì cắt đứt ngoại giao với Vaticcan, buộc Việt hóa Gia tô giáo theo mẫu ‘giáo dân tốt là người yêu nước trước hết’. Đề cao cảnh giác những âm mưu móc nối phá hoại cuộc trị an, chống lại những áp lực chính trị, kinh tế, viện trợ ... của ngoại bang và Vatican để tái lập đặc quyền chính trị của bọn vong bản.
Có đao to búa lớn lắm không khi tuyên bố như thế?  Không. Lịch sử thế giới đã chứng minh qua bao tư liệu tồn trữ trong các văn khố trên khắp năm châu.
Như tôi đã từng khẳng định từ lâu, đạo Ca-tô Rô-ma hoặc Thiên Chúa Giáo với tổ chức giáo quyền chặt chẽ như ta biết ngày nay thực ra đã được dựng lên không phải bởi Jesus ở đầu Tây lịch mà bởi tên bạo chúa La Mã, Hoàng đế Flavius Valerius Aurelius Constantinus Augustus ở thế kỷ thứ 4 qua Công đồng thứ nhất ở Nicaea tại Bithynia (The First Council of Nicaea) vào năm 325 do chính ông ta chủ trì. Ông ta còn được gọi là Đại Đế Constantine I hay "Thánh Constantine". Xin xem thêm:
Từ đó đạo Ca-tô Rô-ma được xem như là một công cụ chính trị để xâm lược bành trướng đế quốc La Mã, mà bọn cố đạo lẻo mép bảo là “mở mang nước Chúa”. Nó có vai trò vô cùng nguy hiểm nhưng hiệu nghiệm là gởi người dưới dạng giáo sĩ làm do thám tình báo trong vùng đất mới dưới chiêu bài rao giảng ‘Tin Mừng’. Sau khi quân La Mã chiếm đóng được bằng ‘lưỡi gươm’ thì nó đóng tiếp vai trò cực kỳ gian tà là dùng ‘thập ác’ (Sword and Cross) và mớ giáo thuyết mê tín nhảm nhí để xóa sạch nền văn hóa và bản sắc dân tộc bản xứ để thâu về một mối cho La Mã, được gọi là ‘đem nền văn minh Ki-tô đến cứu chuộc cho dân man di mọi rợ’. 
Chiến lược này vô cùng lợi hại nên bọn thực dân tây phương đã rặp khuôn từ thế kỷ 15 về sau, khởi đầu bằng bọn Conquistadors Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đi lấn chiếm các nước Hồi giáo ở Trung đông, sau những thất bại của các cuộc Thánh chiến từ thế kỷ 11. Khi bọn chúng đủ mạnh để chiếm đóng Tân thế giới, chúng đã vơ vét tài nguyên khổng lồ bản xứ đem về châu Âu chia chác với Vatican. Chúng còn thâu tóm sở hữu khai thác đất đai phì nhiêu vừa chiếm, phá hủy mọi đền đài tín ngưỡng bản xứ để xây dựng lên đó những nhà thờ mới với thập ác trên đỉnh cao, bắt thổ dân làm nô lệ cho đến chết để tiêu diệt toàn bộ bản sắc và văn hóa bằng cách thay tên đổi họ, áp dặt văn tự mới của chúng, học theo những mẫu chuyện gian ác trong Cựu Ước, trích từhttp://sachhiem.net/TONGIAO/tgN/Nguyensam0.php
- Phải vằm nát và đốt tất cả những nơi thờ tự của những kẻ ngoại đạo, phá bỏ tất cả những ông Thần mà họ thờ… Phục Truyền luật lệ ký [Chương12, đoạn 2-7]
- Phúc cho những ai bắt con trẻ của người Ba-bi-lon mà đập vào đá cho chết. Thi Thiên [Psalm, 137: 9]:
- Hãy đánh dân A-me-léc và phải giết mọi súc vật của chúng, nam nữ giết hết, con trẻ còn bú, bò, chiên, lạc đà phải giết hết. 1 Samuel [15: 2-3]:
- Chúa Trời chỉ đạo cho ông Mai-sen (Moses) mộ binh chống dân Ma-đi-an. Quân của Mai-sen cướp vàng bạc, kim loại, bắt hằng trăm ngàn gia súc của dân Ma-đi-an đem về chia nhau. Đàn ông và trẻ thơ bị giết sạch hết. Nhưng 32 ngàn cô gái còn trinh bắt về làm quà cho các lính ra trận. Chúa Trời bảo ông Mai-sen nộp cho Chúa súc vật và 32 cô gái còn trinh”. Dân Số Ký, chương 31.
Đọc thêm:
Xem thêm: History of Slavery, Leo Muhammad:
https://www.youtube.com/watch?v=s0tKvRl-vM8
Cho nên khi bọn cố đạo lò dò tìm đến Đông Nam Á vào thế kỷ 16, chúng đã đem theo các cuốn cẩm nang của tổ phụ chúng ở Vatican để ‘cứ theo y như thế mà làm’. Hãy nhìn thành tích của chúng ở các nước Trung Nam Mỹ châu, Phi châu và gần ta hơn là Phi-luật-tân; bao nhiêu sắc dân trước đây chắc hẳn đã có một nền văn minh rực rỡ trong quá khứ bỗng chốc … ngơ ngác chẳng còn biết mình là ai bởi gốc gác đã bị tiêu diệt sạch sành sanh, ngay cả tên họ, gia phả, ngôn ngữ, tín ngưỡng gốc cũng không còn. Lịch sử cổ của Ai Cập còn có thể khám phá ra được nhờ Khảo cổ học, chứ với các sắc dân bị trị kia thì lịch sử tổ tiên nay ‘biết nơi mô mà tìm’.
Vì thế ta nên tìm hiểu sâu rộng hơn về lịch sử nước nhà thời cận đại mới biết được công trạng trời biển của Đảng Cộng Sản Việt Nam, lãnh đạo tài tình bởi nhà cách mạng lão thành Hồ Chí Minh, đã huy động toàn dân đánh đuổi được các đế quốc xâm lược Nhật, Hoa, Pháp, Mỹ ở thế kỷ 20 để giành lại độc lập tự do cho dân tộc, trong khi những phong trào khác của các bậc tiền bối đã thất bại.
Sở dĩ phải nhắc đến đế quốc Nhật và Hoa ở đây vì từ năm 1940 Nhật đã tấn công Đông Dương, đến tháng 3, 1945 Nhật lật đổ Pháp, tái lập chế độ bù nhìn Bảo Đại, với Trần Trọng Kim lập nội các và buộc Việt Nam phải nằm  trong Khối Đại Đông Á của Nhật. Khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15 tháng 8, 1945, 20 vạn quân Trung hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch kéo vào Hà Nội và miền Bắc cuối thượng tuần tháng 9, 1945 gọi là để giải giới 6 vạn quân Nhật cùng thời với liên quân Anh Pháp kéo vào Sài Gòn ngày 12 tháng 9, 1945. Tình thế của Việt Nam lúc bấy giờ quả là hổn mang kinh khiếp tưởng chừng như không còn cơ hội nào cho sự nghiệp cứu nước, nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dĩ nhiên từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam xuất hiện đã gom đủ mọi yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa; cộng với sự hy sinh to lớn của cả dân tộc cho “Không có gì quí hơn Độc Lập và Tự Do” nên mới tạo nên  những thành tích cách mạng vang dội. Ta cũng không quên được các sự chi viện hào phóng của khối XHCN, nhất là Liên Xô và Trung quốc. Qua đó mới thấy vì sao các phong trào cách mạng giải phóng khác đồng thời đã thất bại chỉ vì họ chỉ biết dựa giẩm vào các thế lực tây phương và Vatican nên không thể thoát khỏi vòng kiềm tỏa của chúng.
Trong lịch sử thường có những cái xui mà thành hên bất ngờ. Ví dụ vào tháng 7, 1945, Mỹ đã gởi 7 điệp viên OSS (tiền thân của CIA ngày nay) nhảy dù xuống một ngôi làng cách Hà Nội khoảng 120 cây số về phía Tây Bắc để thực hiện một nhiệm vụ bí mật: dạy 200 du kích Việt Minh cách sử dụng vũ khí hiện đại của Mỹ.
Sau khi Nhật Bản đầu hàng Việt Minh, Hồ Chí Minh đã nhờ những người lính Mỹ chuyển tới Tổng thống khi đó là Harry S.Truman một bức thư, bày tỏ mong muốn họ sẽ ủng hộ Việt Minh chống Pháp. Tuy nhiên, ông Truman đã không bao giờ đáp lại bức thư đó và Mỹ đã ủng hộ Pháp. Một số nhà sử học cho rằng, khi từ chối đề nghị của Hồ Chủ tịch, Mỹ bỏ qua cơ hội thiết lập quan hệ tốt đẹp với miền Bắc Việt Nam mà đáng ra nhờ đó có thể tránh được cuộc chiến xảy ra hai thập kỉ sau. Có thể đây là một loại ngôn ngữ ngoại giao bây giờ trong thời mở cửa.
Nhưng tôi cho đó là một cơ may để cuộc cách mạng tháng 8 thành công, biến nước ta thành một nước hoàn toàn độc lập tự do; chứ bấy giờ nếu Mỹ đáp lời yêu cầu của cụ Hồ một cách thuận lợi thì không biết cục diện Việt Nam sẽ ra sao về sau. Các thế lực tây phương và Vatican có chịu chọn Hồ Chí Minh trước khi chọn Ngô Đình Diệm chăng?
Trong Cương lĩnh thứ nhất vào năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất (cương lĩnh dùng cách gọi tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng), cụ thể là phổ biến khẩu hiệu "Việt Nam tự do", đấu tranh và xây dựng một xã hội tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục, đánh đổ thực dân Pháp và chế độ phong kiến, xây dựng chính phủ công nông binh, thành lập quân đội của giai cấp công nhân và nông dân, tịch thu sản nghiệp của tư bản thực dân Pháp, lấy ruộng đất của đế quốc chia cho dân cày nghèo,...
Rõ ràng là “thổ địa cách mạng tức là tịch thu sản nghiệp của tư bản thực dân Pháp, lấy ruộng đất của đế quốc chia cho dân cày nghèo,...” Mà ai cũng biết là, tương tự như ở các nước thuộc địa khác, tư bản thực dân Pháp là ai? Chính là bọn nhà thờ, giáo dân cấu kết với thực dân để chia chác lợi nhuận, để từ những phường vô loại phi dân tộc trở thành chủ nhân ông ăn trên ngồi trốc. Đình chùa miếu mạo của tổ tiên chúng còn không tha, phá bỏ sạch để cướp thành nhà chung, nhà thờ; bàn thờ gia tiên bị đạp đổ huống chi là rừng vàng biển bạc…
Bọn này, thật trớ trêu từ giới bần cùng gia tông thất tán, một khi được bọn thực dân và cha cố đeo cho một cát tên thánh tây xa lạ như Jean Batiste, Maurice, Albert, Joseph, George…, hay Marie, Catherine … là đã tưởng da mình đổi màu, máu mình đã lọc theo... tây, tâm tình mình chẳng có gì tha thiết ở đất Việt, tự cho đất nước mình nằm ở mãi Vatican, nước Chúa trong hoang đường.
Tiếc thay, sau bao cuộc chiến thắng rung trời dời đất giải phóng đất nước mà bọn phản dân tộc vẫn còn đấy, trở thành một lũ ngơ ngác lạ lẫm ngay chính trên quê hương mình rồi tìm mọi cách gây xáo trộn đời sống an bình thịnh vượng của Việt Nam để mong cầu ngoại bang can thiệp như thời tổ tiên chúng đã làm.
Trong Thông cáo của Đảng, Quốc Hội và Nhà Nước ngày 5 tháng 10, 2013 quyết định tổ chức tang lễ đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp với nghi thức Quốc tang, đã ghi tóm lược các thành tích phục vụ nhân dân của Võ Đại Tướng như sau:
Võ Đại Tướng đã từng là Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ; nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam; Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng liên tục trên 80 năm, đồng chí đã có nhiều công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Là người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là Đại tướng đầu tiên và Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí được nhân dân yêu mến, kính trọng, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ, là niềm tự hào của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ toàn quân. Đồng chí đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
Tiểu sử của Võ Đại Tướng gắn liền với những biến chuyển thời cuộc của thế giới và Đông Dương thuộc Pháp ở đầu thế kỷ 20; nhất là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, và giải phóng Miền Nam năm 1975, cả hai đều kéo dài 55 ngày đêm, vang dội khắp hoàn cầu, đưa tên tuổi Võ Đại Tướng trở thành huyền thoại, mở đầu cho việc chấm dứt chế độ thực dân cũ Pháp và thực dân mới Mỹ trên đất nước Việt Nam.
  
1.- Lệnh nổ súng trận Điện Biên chống Pháp 13May1954
2.- Chỉ huy kế hoạch chống B52 năm 1972
3.- Kế hoạch cho chiến dịch Hồ Chí Minh chống Mỹ 1975
Có những nét nhân văn cần ghi lại: Đại Tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 Làng An Xá, Xã Lộc Thủy, Huyện Lệ Thủy, Tỉnh Quảng Bình. Tên khai sinh Võ Giáp, bí danh hoạt động Cách Mạng là ‘Văn’. Hai cụ thân sinh của Đại tướng là Võ Quang Nghiêm và Trần Thị Kiên. Phụ thân ông đã bị Pháp bắt từ những ngày đầu quê hương bị tái chiếm (1947) và bị thủ tiêu ở nhà lao Thừa Phủ. Ông Bà Nội của ông là Võ Quang Nguyên, một nhà nho đức độ và cụ bà Bùi Thị Giá.
Ông là con thứ sáu trong gia đình, nhưng lại coi như con trai cả vì hai con trai sinh truớc đều không nuôi được, tiếp đó là ba người chị gái thì một chị cũng mất sớm vì bệnh kiết lỵ chỉ còn hai người chị được cha mẹ đặt tên là Diễm và Liên. Tiếp sau ông là một người con trai nữa, Võ Thuần Nho và kế đến người con gái, đứa con út trong gia đình được đặt tên là Võ Thị Lài.
Sau khi học xong tiểu học ở Đồng Hới ông đổ vào Trường Quốc Học Huế. Đến tháng 4, 1927 vì những cuộc đấu tranh bãi khóa ở trường, ông bị đuổi học phải trở về quê nhà. Mùa hè năm 1928, Võ Nguyên Giáp trở lại Huế, đeo đuổi cuộc đời của một chiến sĩ cách mạng. Đầu tháng 10 năm 1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa phủ (Huế). Cuối năm 1931, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut và đỗ Tú tài năm 1934. Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937 (Licence en Droit). Do bận rộn hoạt động cách mạng, vào năm 1938, ông bỏ dở học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư.
Người vợ đầu của ông là bà Nguyễn Thị Quang Thái, nhà cách mạng và liệt sĩ khi bị Pháp bắt giam và chết trong tù vào năm 1940. Bà là em của liệt sĩ Nguyễn thị Minh-Khai. Hai người có đứa con gái là Võ Hồng Anh. Sau này, năm 1946 tướng Giáp kết hôn với bà Đặng Bích Hà, con gái của giáo sư Đặng Thái Mai còn là một nhà hoạt động cách mạng nổi danh. Họ có với nhau 4 người con.
Tháng 6 năm 1940, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được Đảng cử ra nước ngoài gặp Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) trên một con thuyền ở Thúy Hồ, Côn Minh, Trung Quốc. Tháng 2 năm 1941, ông cùng Nguyễn Ái Quốc về nước (tới Cao Bằng) trực tiếp chỉ đạo cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng.
Ông được phong hàm Đại tướng sau chiến thắng Thu Đông 1947. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 110/SL ngày 20/1/1948 phong quân hàm Đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân Tự vệ.
Ngày 27/5/1948, Hội đồng Chính phủ trong phiên họp thường kỳ dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định tổ chức trọng thể lễ phong quân hàm cho vị đại tướng đầu tiên của Quân đội vào chiều ngày 28/5/1948.
Và từ đó tiếng tăm của ông bắt đầu vang dội như lịch sử đã ghi.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp hưu trí năm 1991 ở tuổi 80, và sống cuộc đời giản dị ở biệt thự số 30 đường Hoàng Diệu, Hà Nội. Khi sức khỏe yếu dần trong hơn 4 năm cuối đời, ông được tỉnh dưỡng trong Quân Y Viện 108 ngày 24 tháng 6, 2009 và mất ở đấy ngày 4 tháng 10, 2013.
Nhân các ngày quốc tang tiển đưa Võ Đại Tướng về nơi yên nghỉ ngàn thu, trong khi toàn dân trong và ngoài nước đau buồn thương tiếc khôn nguôi cho sự ra đi của một anh hùng dân tộc, trong khi bạn bè và đối phương thất trận dưới tay ông trên toàn thế giới  không tiếc lời ca tụng Ông là “Một thống soái vĩ đại”, “Một thiên tài quân sự lớn nhất của thế kỷ XX và là một trong những vị tướng vĩ đại nhất của mọi thời đại”. “Ông là một trong số ít các nhân vật trở thành huyền thoại ngay cả khi đang còn tại thế.”
Trong cuốn “Võ Nguyên Giáp – Con người và huyền thoại” (Võ Nguyên Giáp – Man and Myth, New York, F. P. Publishers, 1962), nhà báo, nhà sử học Bernard Fall đã đánh giá: “Trong một tương lai có thể thấy trước, phương Tây chưa thể đào tạo được một vị tướng nào sánh kịp Võ Nguyên Giáp”.
Ngày nay tài liệu lịch sử cận đại của thế giới và Việt Nam cao dày như núi, không ai dù có dã tâm đến đâu cũng không thể xuyên tạc được; Ấy vậy vẫn còn sót một vài tên hậu sinh lạc loài, mất liêm sĩ và vô văn hóa, ngang tầm giun dế lại ‘can đảm’ mở giọng xú uế chê bai. Xem kỹ thì toàn là một lũ con chiên nhà thờ hay đám bưng bô quan thầy ‘quên mình trong vâng phục’, không giám ca tụng một bậc vĩ nhân dân tộc mình trong khi Chúa của chúng ở Vatican giữ im lặng.
Điều đó cho ta thấy nền văn minh và văn hóa tây phương không hề đồng nghĩa với nền văn hóa Ca-tô Rô-ma, một nền văn hóa đê tiện và văn minh trung cổ càng ngày càng bị dân chúng tây phương nhận chân xấu xa dần xa lánh.
Có kẻ còn dám xúc phạm xem thường tài năng của Võ Đại Tướng vì ông không xuất thân từ một trường võ bị danh tiếng nào. Nhưng trái lại các sử gia và dư luận phương Tây nể trọng Võ Nguyên Giáp vì ông là vị tướng "không tốt nghiệp một trường võ bị nào và cũng không bắt đầu sự nghiệp quân sự bằng một chức vụ sĩ quan nào", nhưng đã đánh bại quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ (1954) quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam trong suốt thời kỳ 1964-1972.
Nhà báo Stanley Karnow còn ca tụng “tài năng của Đại tướng giúp ông xứng đáng có tên trong ngôi đền Pantheon của các nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại, cùng với Quận công Wellington, Ulysses S. Grant và Tướng Douglas MacArthur. Tuy nhiên, không giống họ, tài năng của ông là thiên bẩm chứ không phải qua trường lớp đào tạo chính quy”.
Bản tin của AP cũng gọi ông là vị tướng huyền thoại, là nhà cách mạng cuối cùng của thế hệ cũ. Bản tin đề cập “vị chỉ huy đội quân du kích đi dép cao su làm từ lốp xe... và đánh bại quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954. Chiến thắng không tưởng - đến giờ vẫn được nghiên cứu ở các trường quân sự trên thế giới - đem lại độc lập cho VN và đẩy nhanh sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân ở Đông Dương và trên trường quốc tế”. AP nói Đại tướng chưa bao giờ được đào tạo chính quy về quân sự và Đại tướng thường đùa là ông học quân sự “từ bụi rậm”.
Tờ Le Monde còn so sánh Đại tướng Võ Nguyên Giáp với Napoleon và phân tích chiến lược quân sự tài ba của vị Đại tướng Việt Nam, nghệ thuật sử dụng trận địa, việc phải dựa lựng vào dãy Trường Sơn, việc phải đảm bảo hậu phương và việc thu hút đối phương vào bẫy. Nhưng họ quên rằng thannh danh và đế chế của Napoleon đã bị chôn vùi ở trận Waterloo ngày 18, tháng 6, 1815, gần cuối đời, còn Đại tướng VNG là vị tướng bách chiến bách thắng như Quang Trung, không hề thua trận nào.
Thực là ấu trĩ khi có kẻ nêu thắc mắc như trên. Bởi vì dân tộc ta là một dân tộc kiên cường suốt lịch sử từ thời các vua Hùng lập quốc cho đến thời đại Hồ Chí Minh, nước ta đã trải qua tổng cộng 13 cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi các cuộc xâm lăng và đô hộ của quân xâm lược, chủ yếu là bọn Tàu phương bắc kể từ thời nhà Hán. Tổ tiên ta đã liên tục cứu nước và giữ nước để có được “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, lưu lại cho con cháu môt giải giang sơn gấm vóc oai hùng ở Đông Nam Á.
Trong các cuộc chiến tranh tự vệ như vậy, cha ông ta đã hy sinh biết bao xương máu. Những bậc anh hùng cứu nước rạng danh hầu hết xuất phát từ giới nông dân, chẳng tốt nghiệp ở Saint Cyr, Hoàng Phố  hay West Point nào cả mà vẫn làm cho bọn xâm lược tán đỡm kinh hồn bạc vía.
Võ Đại Tướng đã kế thừa và phát triển xuất sắc nghệ thuật chiến tranh Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước, qua truyền thống kháng chiến bất khuất của cả dân tộc. Đó là phát triển từ chiến thuật du kích lẻ tẻ sang chiến tranh du kích toàn diện, tránh khi giặc mạnh, đánh khi giặc mỏi.
Chiến tranh du kích đó đứng trên điểm tựa của sự động viên và nguồn lực của cả dân tộc trong chiến tranh nhân dân. Tướng Giáp viết trong hồi ký của mình:  “Mỗi người dân là một người lính, mỗi xóm làng là một pháo đài”. “Chiến tranh du kích là cuộc chiến tranh của đông đảo quần chúng nhân dân ở một quốc gia lạc hậu về kinh tế chống lại một đội quân xâm lược hùng mạnh, được trang bị hiện đại và được huấn luyện bài bản”.
Ông còn thấu triệt và phối hợp nhuần nhuyễn giữa chiến tranh tổng lực, chính quy, với chiến tranh du kích lừng danh của Việt Nam. Ngoài ra Võ Nguyên Giáp còn biết tận dụng các nghệ thuật quân sự của thế giới, cả Đông lẫn Tây, tổng hợp xuất sắc các chiến thuật của Napoleon và Tôn Tử.
Điện Biên Phủ là thời điểm thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp nở rộ nhất, thăng hoa nhất trong cả cuộc đời ông, chuyển từ chiến thuật “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” ở phút cuối. Từ đó người ta mới nhận rõ một cá nhân kiệt xuất, có tư duy hơn người.
Ngay cả tướng de Castries, chỉ huy trưởng cứ điểm đã trả lời đau xót khi được khai thác sau chiến thắng Điện Biên Phủ: “Các ông có biết không, Điện Biên Phủ phiên âm ra Pháp ngữ là ‘Devien fou’ có nghĩa là tôi trở thành thằng điên.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã gây hứng khởi cho các dân tộc còn đang nằm dưới ách đô hộ của thực dân tây phương ứng dụng và vùng lên giàng độc lập tự do. Từ đó Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Điện Biện Phủ mãi mãi gắn liền với hai tiếng Việt Nam. 
Sự nghiệp giải phóng Miền Nam chỉ là hệ quá tất yếu của cuộc chiến thắng Điện Biên Phủ chấm dứt gần một trăm năm dân tộc bị Pháp và Vatican đồng đô hộ. Sau khi Pháp thất trận, Mỹ nổi lên như một thế lực ngoại bang thay thế, gia tăng hiện diện mà đỉnh điểm là năm 1968 với 500.000 nhân viên quân sự. Bước ngoặc chiến lược là Cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1968 cũng đã được tướng Giáp hoạch định.
Cũng cùng lối suy nghĩ ấy có huyền thoại kể rằng một nhà báo tây phương trong một cuộc phỏng vấn cụ Hồ hỏi lấy tiêu chuẩn gì mà Võ Nguyên Giáp được phong hàm Đại Tướng?  Cụ Hồ mĩm cười nói:
"Đánh thắng đại tướng thì đáng được phong đại tướng là lẽ đương nhiên". Suốt đời binh nghiệp của ông,   Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lần lượt đọ sức và đánh thắng tới 4 đại tướng của Pháp và 6 tướng của Mỹ, chưa kể đến nhiều viên tướng lặt vặt của chính quyền Sài gòn.
Phải nói rằng viên ngọc quí sẽ còn chìm mãi trong đá nếu không có người thợ kim hoàn kinh nghiệm khám phá và đem ra mài giủa. Và người ấy không ai khác chính là cụ Hồ. Jean-Claude Pomonti trên Le Monde khẳng định công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi phát hiện ra tài năng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ rất sớm. Bài báo viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một phản xạ thiên tài. Khi đến gặp ông vào tháng 6,1940 ở miền Nam Trung Quốc, ông Giáp mới 29 tuổi và chưa hề qua một khóa đào tạo nào về quân sự. Làm thế nào mà nhà cách mạng già dặn – cụ Hồ khi đó đã 50 tuổi - có thể đoán được rằng chiến sĩ trẻ này có tài năng của một vị tướng lớn? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tin tưởng giao cho ông thành lập lực lượng tự vệ, rồi thành lập quân đội nhân dân Việt Nam. Từ năm 1948, ông đã phong ông Giáp là Đại tướng, cấp bậc mà ông Giáp vẫn mang theo trong ngày ông qua đời”.
Ngoài đức độ và tài năng, lối sống giản dị, khiêm tốn, dân chủ và bao dung, thanh cao và quyết đoán đã tạo nên nhân cách Võ Nguyên Giáp – một vị tướng tài đức vẹn toàn, “một con người Việt Nam đã thuộc về toàn thế giới”. Võ Đại Tướng từng nói khi có người hỏi về cuộc đời của ông: “Đời mình có gì đâu mà viết. So với Bác Hồ, với đồng bào, chiến sĩ, mình chỉ là một giọt nước rất nhỏ giữa đại dương mênh mông...” Thực là đầu óc siêu việt của một bậc thiên tài.
Võ Đại Tướng đã góp phần cùng với Đảng Cộng Sản Việt Nam “Đập Nhật, Đuổi Hoa, Diệt Pháp, Đánh Mỹ nhưng tiếc thay lại bỏ sót đế quốc Vatican và bè lũ tay sai, có lẽ họ còn hy vọng cải tạo được đám người bản xứ nằm vùng, từng nối giáo cho giặc, giả danh tín đồ của một tôn giáo. Sự nương tay ấy đã gây nên một hậu quả bất lợi cho sự an bình phát triển trong nước. Bọn chúng sau một thời gian thu mình nay đã được sự xúi giục và tuân lệnh từ bên ngoài bắt đầu gây xáo trộn mong quan thầy tây phương và Vatican xen vào dưới chiêu trò “tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền” rởm, mà quên rằng những quyền đó trước đây tây phương và Vatican có tôn trọng bao giờ một khi đô hộ dân.
Tên tuổi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gắn liền với hai cuộc kháng chiến “đánh bại hai đế quốc to lớn” ở cương vị Tổng Tư lệnh. Lịch sử sẽ không bao giờ quên hai quyết định quan trọng gắn với việc chuyển đổi phương châm chỉ đạo từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc thắng chắc” trong Chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954) và tư tưởng “thần tốc, thần tốc hơn nữa...” trong Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thức thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (năm 1975). Tôi chỉ muốn mạo muội thêm vào một phương châm nữa cho hàng ngũ lãnh đạo đất nước kế thừa là: “giàu mạnh, giàu mạnh hơn nữa, dân trí nâng cao hơn nữa” để dẹp tan bọn phản động giả danh tôn giáo."
Kính cẩn tri ân công trạng trời biển của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đối với dân tộc.
Bùi ngùi tiễn đưa Người về cùng với tổ tiên hào kiệt.

Thiên Lôi.
Tháng 10, 2013.