Tổng số lượt KHÁCH xem trang

THUỐC CHỐNG RỤNG HOA/BÔNG MAI, BÔNG GIẤY, SỨ THÁI LAN, ĐỖ QUYÊN (SUPER A..Z)


THUỐC CHỐNG RỤNG HOA/BÔNG MAI, BÔNG GIẤY, SỨ THÁI LAN, ĐỖ QUYÊN (SUPER A..Z)

Thuốc chống rụng bông mai của chúng tôi đã có mặt ở thị trường Tây Nam bộ từ những năm '90 của thế kỷ trước và đến năm đầu tiên của thiên niên kỷ nầy Bộ Nông Nghiệp & PTNT với quyết định QĐ 6523/QĐ-BNN-KHCN ngày 19/12/2001 đã “CÔNG NHẬN SẢN PHẨM NẦY LÀ MỘT BIỆN PHÁP KỸ THUẬT MỚI ĐƯỢC PHÉP SẢN XUẤT, KINH DOANH VÀ XUẤT KHẨU THEO QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH” và tiếp theo đó đã đưa sản phẩm nầy vào”DANH MỤC PHÂN BÓN ĐƯỢC PHÉP SẢN XUẤT, KINH DOANH VÀ SỬ DỤNG Ở VIỆT NAM ” liên tục cho đến ngày nayNhư vậy cho đến thời điểm nầy, chỉ có Thuốc chống rụngbông mai Super A-Z của DNTN THẢO TRÂM là được Bộ NN&PTNT côngnhận đạt hiệu quả kỹ thuật cao và tính pháp lý của sản phẩm thuốc chống rụng bông mai là một sản phẩm độc đáo của DNTN THẢO TRÂM được bà con xa gần trong cả nước biết đến hơn 20 năm qua nhất là khu vực Nam bộ, nơi mà thị trường sản xuất và tiêu thụ hoa mai mạnh nhất trong cả nước.Thuốc đã qua thử thách hằng chục năm rồi

xem chi tiết>>>


Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Chống Phật Giáo ? Vì sao?


CHỐNG PHẬT GIÁO? VÌ SAO?
Ai cũng biết, trừ đám người Ca-tô vong bản phi dân tộc phi tổ quốc, Phật Giáo Việt Nam là tôn giáo của dân tộc.  Cho nên chỉ có bọn vô lại thiếu hiểu biết mới lên tiếng chống Phật Giáo với những thủ đoạn xuyên tạc để mà chống, vu khống để mà chống, chụp mũ để mà chống v.v... Hiện tượng chống Phật Giáo chỉ xảy ra trong đám lâu la Ca-tô ở hải ngoại, trong bầy đàn con chiên cuồng tín.  Cuồng tín, theo định nghĩa của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang trong cuốn “Thực Chất Của Giáo Hội La-mã, Tập II, trang 482, có nghĩa là “tổng hợp của sự dốt nát, ngu đần, hợm hĩnh, hung hăng, cộng với nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ”.  “Đạo
 Lý Thiên-La Đắc-Lộ” là cụm từ Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang dùng để chỉ những ảnh hưởng tai hại của Thiên Chúa Giáo La Mã (Thiên-La) mà giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc-Lộ) đã mang đến đầu độc đầu óc lớp người dân thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam: "Sự tổng hợp của sách lược truyền đạo tàn bạo, cường quyền thắng công lý, của giáo hội Công giáo và sự cuồng tín, gian manh, xuyên tạc, cùng cách dùng ngôn từ hạ cấp của giáo sĩ Đắc Lộ(Alexandre de Rhodes)." [Xin đọc Chương 15 trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư (1954-1963) của Giáo sư Quang]. Di lụy của sách lược đầu độc này còn kéo dài cho tới ngày nay, trải dài từ trong tòa thánh Vatican đến xóm đạo Bolsa, các xóm đạo ở Việt Nam và ở hải ngoại, và trên nhưng diễn đàn truyền thông điện tử như Tiếng Nói Giáo Dân, Nữ Vương Công Lý, Dòng Chúa Cứu Thế, Vietcatholic v.v…
   Bản chất Ca-tô Rô-ma giáo là một tà đạo, như ông cha ta ngày xưa đã nhận định rất chính xác, và tôi đã chứng minh rõ ràng trong http://sachhiem. net/TCN/TCNtg/TCN115.php.  Mấy người trong tà đạo Ca-tô giáo, có trí tuệ của con chiên như Lữ Giang, Chu Tất Tiến, Trần Đình Ngọc, matthew Trần, Hồng Lĩnh v.v… mà đòi thay đổi viết lại lịch sử để chống Phật Giáo thì chỉ làm công việc “Dã Tràng xe cát biển đông”, vì quy luật thế gian là tà không bao giờ có thể thắng được chánh. Bởi vậy khi giáo hoàng John Paul II viết bậy về Phật Giáo trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, và Hồng Y Ratzinger, sau là giáo hoàng Benedict XVI, phán một câu rất  vô đạo đức tôn giáo về Phật Giáo, thì Phật Giáo vẫn không thèm đếm xỉa đến mấy thủ đoạn hạ cấp của mấy vị chủ chăn Ca-tô Giáo, và thực tế là Phật Giáo càng ngày càng phát triển trên thế giới, dù Phật Giáo không có bất cứ một thủ đoạn nào để thu nhặt tín đồ như Ca-tô Giáo.  Vài tài liệu sau đây sẽ chứng tỏ vấn đề.
Ngay từ năm 1969, John H. Garabedian & Orde Coombs đã xuất bản cuốn Những Tôn Giáo Đông  Phương Trong Thời Đại Điện Tử (Eastern Religions In The Electric Age), hình bìa ngoài là hàng chữ lớn viết lên tường: Chúa Ki-Tô Đã Chết - Phật Đang Sống (Christ Is Dead - Buddha Lives), nội dung nói về cuộc nổi dậy đạo đức ở Mỹ (moral revolt in America), phân tích tại sao hàng triệu giới trẻ đang vứt bỏ những truyền thống (Ki Tô Giáo) của họ và tìm kiếm những giải đáp mới trong những tư tưởng và tôn giáo Đông phương (Why millions of young people are rejecting their own traditions and seeking new answers in the ideas and religions of the East)
    Năm 1994, Stephen Batchelor xuất bản cuốn Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương (The Awakening of the West), nội dung viết về lịch sử tiếp xúc của Phật Giáo với Tây phương.  Cuốn sách được giới thiệu như sau:   "Cuốn "Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương" là một cuốn viết rất hay về lịch sử tiếp xúc của Phật Giáo với Tây phương trong 2000 năm qua - một cuốn sử biên về những cơ hội bỏ lỡ, sự kiêu căng văn hóa, thảm kịch chính trị, và những giấc mộng không thành.  Từ thời đại đế Alexandre, các vua chúa và giáo hoàng Tây phương đã mong mỏi kiếm được quyền lực bằng cách chinh phục Á Châu.  Qua nhiều thời kỳ họ đã phái từng đợt sứ giả và các nhà truyền giáo tới Á Châu để tiếp xúc với những người "ngoại đạo", nhưng tâm thức hẹp hòi của người Tây phương đã làm cho những người này chẳng biết được bao nhiêu về Phật Giáo.
   Ngày nay Phật Giáo được coi như là một tôn giáo phát triển nhanh nhất và là một trong những phong trào tinh thần có ảnh hưởng nhiều nhất ở Tây phương."
 
Sự thức tỉnh của con người Tây phương cho chúng ta thấy rõ qua sự xuất bản cuốn Tinh Túy Của Phật Giáo (The Essence of Buddhism), tác giả là John Walters.  Cuốn sách nhỏ này, vào khoảng 150 trang, rất đặc biệt, vì đó là tác phẩm của một người trưởng thành trong truyền thống Ki Tô, được nhồi sọ Phật Giáo là một tôn giáo yếm thế, vô vọng, một dạng sơ khai của chủ thuyết hiện sinh v.v..., và tin rằng Ki Tô Giáo là tôn giáo duy nhất có ích cho nhân loại.  Nhưng sau một chuyến du hành Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, ông ta đã thấy tận mắt thực chất của Phật Giáo, hoàn toàn không như những điều ông đã được nhồi vào đầu từ khi còn nhỏ.  Ông bèn suy nghĩ lại, tìm hiểu lịch sử và so sánh Ki Tô Giáo với Phật Giáo.  Ông nghĩ tới “những sai lầm và tội ác của những Giáo hội Ki Tô và những giới chức lãnh đạo trong quá khứ” (the blunders and crimes of the churches and their leaders in past ages), những lễ tiết (rituals) trong Ki Tô Giáo mà ông cho là có tính cách“mê tín tàn bạo” (sadistic superstition) và so sánh với  “một trong những sự vinh quang nhất của Phật Giáo là tinh thần khoan nhượng” (one of the greatest glories of Buddhism is its tolerance).  Chân giá trị của Phật Giáo đã làm cho John Walters thức tỉnh, thức tỉnh khỏi những điều sai sự thực, mê muội mà tôn giáo truyền thống của ông đã đầu độc đầu óc ông từ khi ông còn nhỏ.  Và đây là sự thức tỉnh về tư duy, một khả năng quý báu nhất của con người.
   Tờ Time, số ngày 13 tháng 10,  1997, bìa ngoài có hình tài tử Brad Pitt, tài tử đóng phim Bảy Năm Ở Tây Tạng (Seven Years in Tibet), và hàng tít lớn: Sự Hấp Dẫn Của Phật Giáo Đối Với Mỹ (America's Fascination With Buddhism).  Trong số báo này có một bài dài 11 trang viết về đề tài Phật Giáo ở Mỹ (Buddhism in America).
   Tờ Chicago Tribune ngày 16 tháng 6, 2000, có một bài của ký giả Karen Mellen tường trình về chủ đề “Người Tây phương đến với tín ngưỡng Á Châu nhiều hơn” (More Westerners are drawn to Asian Faith) trong đó tác giả đã nói lên một sắc thái rất đặc biệt của Phật Giáo như sau:
   Không cần phải tìm cách thu phục hay tích cực kiếm thêm tín đồ, Phật Giáo đang nở rộ tại tiểu bang Illinois và các tiểu ban lân cận.  Trong 5 năm qua, số tín đồ Phật Giáo tăng lên 25%, và mỗi năm có thêm 4 hay 5 Chùa mới.”
   (Without proselytizing or actively seeking members, Buddhism is flourishing in Illinois and nearby states.  Over the last five years the number of Buddhists has risen 25 percent, and four or five new temples open each year.)
    Trên đây chỉ là vài tài liệu điển hình nói lên sự phát triển Phật Giáo ở Tây phương. Tuy nhiên, chúng không khỏi gây cho chúng ta một thắc mắc: Nếu nền văn minh tiến bộ Tây phương mà Ki Tô Giáo thường nhận vơ vào làm nền văn minh Ki Tô Giáo thật sự có giá trị về vấn đề đạo đức, tâm linh, thì tại sao thế giới Tây phương, nhất là giới trí thức hiểu biết, lại không hài lòng với tôn giáo truyền thống của mình mà lại thấy Phật Giáo hấp dẫn?  Câu trả lời ngắn gọn là: Tây phương đã thức tỉnh ra khỏi những sự dối trá, lừa bịp của tôn giáo truyền thống Tây phương. Nhưng còn dân Ca-tô Việt Nam thì sao?  Rõ ràng là họ vẫn ngụp lặn trong u mê ám chướng.  Những tài liệu trên về Phật Giáo và những tài liệu động trời về Ca-tô giáo gần đây chứng tỏ Phật Giáo không có chết mà đang sống mạnh trên khắp thế giới.  Chỉ có Ca-tô giáo là đang chết dần chết mòn trước thế giới, và đây là chiều hướng bất khả đảo ngược.  Một số tài liệu điển hình sau đây đã góp phần trong chiều hướng trên của Ca-tô Giáo.
   Những người Ca-tô Việt Nam còn ở trong Ca-tô giáo, nhất là những kẻ tân tòng vì một lý do nào đó, đều không ý thức được rằng, một khi đã lọt vào trong guồng máy điều kiện hóa đầu óc của tà đạo Ca-tô, thì tuy đã mất đi những giây thần kinh biết ngượng và biết liêm sỉ, nhưng dù muốn dù không họ cũng dính liền với cái lịch sử ô nhục đẫm máu của 7 núi tội ác của Ca-tô Giáo đối với nhân loại (http://giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=55) mà Giáo hoàng John Paul II đã xưng thú trước thế giới ngày 12.3.2000, với sự kiện lịch sử là một số không nhỏ các giáo hoàng, những đại diện của Chúa, đã phạm tội giết người, loạn dâm, loạn luân (http://giaodiemonline.com/2007/06/duccha.htm), với một số linh mục đã đi hiếp dâm chị em nữ tu của mình trên 27 quốc gia và bắt một số đi phá thai, với trên 6000 linh mục can tội cưỡng bách tình dục và ấu dâm (http://giaodiemonline.com/2010/05/loandam.htm) mà một số đang ngồi đếm lịch trong tù, với sự phá sản tâm linh và đạo đức trong toàn thể giáo hội, từ Vatican trở xuống (http://sachhiem. net/TCN/TCNtg/TCN122.php), và nhất là, với bản chất “hễ đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản dân tộc”, người Ca-tô Việt Nam đã làm tay sai cho thực dân Pháp để đưa nước nhà vào vòng nô lệ của Pháp (http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN34.php) như giám mục Puginier đã thú nhận. 
      Với tâm cảnh nô lệ thần quyền được nhồi vào đầu óc, người Ca-tô thường đưa ra một luận điệu ngụy biện để chống đỡ cho giáo hội là:  đó là lịch sử xa xưa, không liên can gì đến tôi, giáo hoàng hay linh mục chẳng qua chỉ là những con người, con người thì có thể xấu, có thể tốt, nhưng giáo hội thì vẫn thánh thiện.  Tôi cảm thấy cần phải nhắc để cho họ nhớ rằng: theo giáo lý của Ca-tô giáo dạy các tín đồ ngu ngơ thì: Giáo hoàng chính là đại diện của Chúa trên trần (Vicar of Christ), người mà các tín đồ thường xưng tụng là “Đức Thánh Cha”; linh mục đều là các “Chúa thứ hai” (Alter Christus), người mà các con chiên thường gọi là “Đức Cha”; và các nữ tu (sơ) đều là hôn thê của Chúa (Bride of Christ), chứ không phải là những người thường như mọi người. Bởi vậy khi mà các con chiên ngụy biện cho rằng giáo hoàng, linh mục, các sơ chỉ là những con người thì họ đã mặc nhiên phủ nhận những tước vị tự phong của các giáo hoàng, linh mục, và nữ tu.  Do đó họ không có lý do gì để mà cúi đầu vâng phục theo “đức vâng lời” các bề trên, vì họ không thể biết “bề trên” nào là “con người” đồi bại.
    Nhưng vấn đề ở đây là hôn thê của Chúa mà các linh mục cũng không tha, đi hiếp dâm họ dài dài.  Trong những năm gần đây, nhiều bản tường trình cho thấy chi tiết về các vụ linh mục cưỡng dâm nữ tu trên khắp thế giới, nhưng Vatican vẫn nằng nặc phủ nhận. Các nữ tu, đặc biệt là ở Phi Châu, bị tổn thương hơn cả, vì được coi là an toàn đối với bệnh AIDS [Reports (http://www.priestsofdarkness.com/nuns.html) in recent years have detailed extensive and global abuse of nuns by priests, which the Vatican has vigorously denied. Nuns, especially in Africa, have been even more vulnerable than before as they are deemed to be safe from AIDS.]  Trong bài Hồ Sơ Về Sự Lạm Dụng Tình Dục Của Các Linh Mục Đối Với Các Nữ Tu [Documents Allege Abuse of Nuns by Priests], trên tờ New York Times ngày 21 tháng 3, 2001, viết bởi Chris Hedges, chúng ta có thể đọc những đoạn như sau:
     Những bản phúc trình mật của Giáo hội Ca-tô Rô-ma trong thời gian 7 năm qua đã cho biết có nhiều trường hợp nữ tu (hôn thê của Chúa) bị các linh mục (Chúa thứ hai) cưỡng bách tình dục và các bề trên trong giáo hội đã bao che, không đáp ứng và không đưa ra biện pháp để kỷ luật những linh mục phạm tội. [Confidential Roman Catholic Church reports written over a period of 7 years allege numerous cases of sexual abuse of nuns by priests and a failure by church leaders to discipline the clerics who were involved]
    Các bản phúc trình viết rằng một số linh mục đã đòi hỏi các nữ tu ở dưới quyền phải phục vụ tình dục cho họ để đổi lấy một số ưu đãi đặc biệt (nghĩa là coi chị em tâm linh của mình như gái điếm, bán thân để được ưu đãi)Trong một số trường hợp, các linh mục làm cho nữ tu có mang rồi bắt họ đi phá thai. [The reports say some priests have demanded sex from nuns under their charge in return for favors. In some instances priests are said to have impregnated nuns and the forced them to have abortions] 5 bản phúc trình viết bởi những viên chức cao cấp trong các dòng nữ tu và một linh mục Mỹ, cho thấy sự lạm dụng tình dục của các linh mục đã xảy ra trong nhiều quốc gia, con số tới nay là 27, kể cả Mỹ.
     Những phanh phui gần đây cũng còn cho biết những chuyện động trời trong Ca-tô giáo như nữ tu đồng giống luyến ái (lesbian sisters), và những chuyện gian lận (fraud), hành hạ trẻ mồ côi trong một số viện mồ côi quản trị bởi các nữ tu “hiền như ma sơ”.  Chi tiết những chuyện này có trên (http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN65_1.php).  Sau đây là một đoạn điển hình trong đó:
      Cuốn “The Awful Disclosures” của Maria Monk, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1836, đã gây nên một làn sóng công phẫn về những chuyện động trời trong nữ tu viện Công giáo Hotel Dieu, thí dụ như: “Các linh mục ở gần đó có lối riêng và kín đáo để vào tu viện bất cứ lúc nào và tự do làm tình với các nữ tu. Những đứa bé sinh ra liền được mang đi rửa tội để bảo đảm chúng sẽ được lên thiên đường rồi bóp mũi cho chết [All babies born of these illicit encounters, Monk claimed, were baptized before being killed and dumped in the basement].
   Maria Monk cũng kể rằng, Sơ được các Sơ bề trên dạy là một trong những nhiệm vụ lớn lao của các nữ tu là phải tuân phục các linh mục trong mọi vấn đề, kể cả vấn đề phục vụ tình dục cho các linh mục [I must be informed that one of my great duties was to obey the priests in all things; and this I soon learnt, to my utter astonishment and horror, was to live in practice of criminal intercourse with them]. Tại sao? Maria Monk được bề trên giải thích: “Vì không có các linh mục làm phép, chúng ta không thể được tha tội và phải xuống hỏa ngục.” [They, the priests, might be considered our saviors, as without their service we could not obtain pardon of sin, and must go to hell]
    Chúng ta thấy, chính sách tẩy não nhồi sọ và hù dọa của Ca-tô giáo thật là đáng sợ, dã man như thế nào. Thế mà các tín đồ cứ cắm đầu cắm cổ mà tin thì chúng ta phải hiểu đầu óc của họ thuộc loại nào. Vì chính sách tẩy não này, vì một cái bánh vẽ trên trời, mà các tín đồ Ca-tô đã mất đi nhân cách của con người, cúi đầu tuân phục các bề trên theo “đức vâng lời”, kể cả tuân phục trong việc phản quốc, và các nữ tu cũng đã tuân phục để cho các linh mục, alias “Chúa thứ hai” dày vò thân xác của mình để thỏa mãn thú tính của các “Chúa thứ hai”.  Những chuyện đồi bại trong giáo hội Ca-tô, suốt từ trên xuống dưới, trong 2000 năm lịch sử, thì không làm sao kể ra cho hết được.  Đó là thực chất của một tổ chức thế tục buôn thần bánh thánh nấp sau bộ mặt tôn giáo mà các con chiên Việt Nam vẫn hãnh diện cho rằng mình ở trong một “hội thánh”.  Và các chủ chăn như John Paul II, Benedict XVI, Francis và TGM Leopoldo Girelli, đại diện của Francis ở Việt Nam, đến ngày nay mà vẫn trơ trẽn huênh hoang tự nhận Ca-tô Giáo là một “hội thánh của Chúa Ki-tô”.
       Một thí dụ về sự ngu xuẩn và gian manh của Lữ Giang để chống Phật Giáo khi hắn ta viết: Video Các Ni Cô "đồng hành với dân tộc", nối tiếp truyền thống "Mừng Giải Phóng" và Sinh Nhật Bác Hồ của các cao tăng Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang.
    Thứ nhất, “Ni cô đồng hành với dân tộc” thì đó là niềm vinh dự của Phật Giáo.  Còn “Ca-tô giáo đồng hành với quân xâm lăng” như lịch sử đã chứng tỏ thì đó là sự ô nhục của Ca-tô Giáo.  Có cần tôi phải chứng minh sự kiện này không?  Lữ Giang có biết thế nào là nhục không?
   Thứ nhì, màn văn nghệ các Ni cô đóng trong ngày Hội Nữ Tu Phật Giáo ở Bình Chánh ngày 9.8.2013 là để ‘kỷ niệm 66 năm, ngày Bác Hồ ra lời kêu gọi thi đua ái quốc vào năm 1947’,  không liên quan gì đến chuyện Giải Phóng đất nước vào ngày 30 tháng Tư, và cũng không liên quan gì đến ngày sinh nhật Bác Hồ vào ngày 19-5-1890.
   Thứ ba, nếu muốn nói về cao tăng Phật Giáo Ấn Quang thì ngọn lửa từ bi của Bồ Tát Thích Quảng Đức đã đánh thức lương tâm thế giới, khiến cho quan thầy Mỹ phải loại bỏ đứa con đẻ của mình (our offspring) là chính quyền Ngô Đình Diệm qua tay các tướng lãnh miền Nam, theo một nghĩa khác thì đã góp phần “giải phóng nhân dân miền Nam” khỏi chế độ Ca-tô của gia đình bạo chúa Ngô Đình Diệm.  Bất kể ngày nay những nhóm “vọng Ngô” ca tụng Ngô Đình Diệm như thế nào, không ai có thể phủ nhận là Ngô Đình Diệm thuộc một dòng tộc ba đời làm Việt Gian, và trước thế giới cũng như trước đa số người dân Việt, chế độ Ngô Đình Diệm chỉ là một chế độ tay sai, thất nhân tâm, đồng hành với giặc ngoại xâm tàn hại đất nước.  Hơn nữa, những người “vọng Ngô” chống phá Phật Giáo đừng quên rằng họ ở trong một tập thể đã có tội với dân tộc, và chừng nào họ chưa thoát ra khỏi vòng nô lệ Vatican thì chừng đó người dân Việt vẫn nhìn họ với đôi mắt hoài nghi và không bao giờ quên được những vai trò Ca-tô Việt gian phản quốc như Trần Bá Lộc, Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Ký, Trần Lục, Hoàng Quỳnh, Ngô Đình Thục v.v…
   Như vậy, tha hồ cho mấy người Ca-tô ngu xuẩn thuộc loại Lữ Giang hay Chu Tất Tiến, hay bất cứ ai, có bịa đặt, xuyên tạc chống Phật Giáo như thế nào thì chỉ có mấy con chiên đọc được tiếng Việt biết mà thôi, còn tuyệt đại đa số người Việt thì đã biết bản chất của Ca-tô Giáo và các con chiên Ca-tô như thế nào rồi, và thế giới cũng đã biết thực chất của Ca-tô Giáo so với Phật Giáo như thế nào.  Phật Giáo được coi là tôn giáo tốt nhất thế giới, và Liên Hiệp Quốc đã chọn Lễ Tam Hợp – Vesak của Phật Giáo là ngày lễ của LHQ.  Bất kể là những người Ca-tô xuyên tạc Phật Giáo như thế nào, Phật Giáo Ấn Quang là CS hay Bồ Tát Thích Quảng Đức bị đốt v.v…, vấn đề là chế độ Ca-tô độc tài tôn giáo, gia đình trị của tay sai Ngô Đình Diệm chống Cộng cho Mỹ đã sụp đổ, đưa đến niềm hân hoan vui mừng cho người dân miền Nam.  Đây là một sự kiện.  Cấm cãi.  Điều này đã nói rõ hơn gì hết là tất cả những thủ đoạn gian manh của đám người vô lại Ca-tô đang ra công chống phá Phật Giáo là đang làm cái công việc của “Dã Tràng xe cát biển đông”.  Muốn phê phán một tôn giáo chúng ta không thể dựa vào đạo đức hay khuynh hướng chính trị của các cá nhân trong tôn giáo đó.  Ngay cả về Ca-tô Giáo chúng ta cũng không thể dựa vào đạo đức của một số giáo hoàng loạn luân, loạn dâm, giết người v.v… hay trên 6000 linh mục can tội ấu dâm hay đi hiếp dâm chị em nữ tu của mình trên 27 quốc gia mà đánh giá tự thân Ca-tô Giáo.  Chúng ta phải xét đến kinh điển, giáo lý của mỗi tôn giáo, và trong lịch sử nhân loại, tôn giáo đó đã làm những gì đối với nhân loại, từ đó mới có thể đánh giá đúng một tôn giáo.
   Thật vậy, không ai có thể phủ nhận là trong Phật Giáo có những người mặc áo cà sa nhưng không có đức hạnh của bậc sa môn.  Trong Phật Giáo, ai tu người ấy chứng, cho nên tất cả đều tùy thuộc vào cá nhân.  Nếu có một số ăn thịt, uống rượu, hoặc có vợ con nọ kia, thì Phật tử chúng tôi không ngần ngại lên tiếng tố cáo và yêu cầu họ xuất tu, vì họ không theo đúng tiêu chuẩn của bậc tu hành Phật Giáo, và những Phật tử có hiểu biết đều xa lánh họ.  Nhưng họ không phạm tội thế gian, và trước Pháp luật không có tội gì. Chỉ là tu chưa trót mà thôi.  Không có tòa án thế gian nào xử phạt những người ăn thịt, uống rượu, hay có vợ con.  Những người như vậy không dính dáng gì đến Phật Giáo vì toàn bộ Kinh điển Phật Giáo không có chỗ nào dạy họ làm như vậy, và các bậc tu hành nghiêm chỉnh trong Phật Giáo cũng không bảo họ làm như vậy.  Cho nên đưa những trường hợp này ra để chỉ trích Phật Giáo là chỉ trích bậy.  Bởi vì chính Kinh Pháp Cú cũng đã phủ nhận những người này, Câu 9: “Mặc áo cà sa mà không rời bỏ những điều tham dục, không thành thật khắc kỷ, thì thà chẳng mặc còn hơn”.  Câu 10: “Rời bỏ những điều tham dục, giữ gìn giới luật nghiêm minh, khắc kỷ và chân thành, người như thế đáng mặc áo cà sa”.  Như vậy, cà sa chỉ là một bộ áo, và Phật tử chúng tôi chỉ tôn trọng bộ áo này khi nó ở trên mình của những bậc tu hành đạo đức nghiêm chỉnh. 
   Ngày nay còn có nhiều người khoác áo cà sa làm sư giả.  Vậy họ có liên quan gì đến Phật Giáo? Tuy nhiên, Phật Giáo cũng không tránh khỏi búa rìu dư luận, nhất là từ phía những người ít hiểu biết, hoặc đang chống phá Phật Giáo.  Phật Giáo không có cơ chế trừng phạt những kẻ mượn danh Phật Giáo, khoác áo cà sa để theo đuổi những tham dục cá nhân.  Việc này chính ra chính quyền phải lo, như khi xưa nhiều chính quyền đã có những biện pháp ngăn ngừa những tu sĩ Phật Giáo không xứng đáng với vị thế tu hành của mình.  Mặt khác, những tín ngưỡng dân gian như bói toán, đốt vàng mã, lên đồng v.v... cũng không dính dáng gì đến Phật Giáo.  Vì không có chỗ nào trong Kinh Điển Phật Giáo hay trong những lời dạy của các Tổ, các cao Tăng.  Và Phật Giáo đang có nỗ lực vận động để người dân đừng phí phạm tiền bạc vào những chuyện mê tín. Cho nên, những người đang cố sức đánh phá Phật Giáo bằng những chuyện không đâu, chẳng dính dáng gì đến Phật Giáo, chỉ là những kẻ ngu si vô trí, đi làm những chuyện ruồi bu.
   Khác với Ca-tô Giáo.  Bộ áo chùng thâm tượng trưng cho vị thế của một “Chúa thứ hai”, nhưng khi các “Chúa thứ hai” đi hiếp dâm các chị em nữ tu của mình, cùng các trẻ vị thành niên, tuy đối với Pháp luật thế gian, họ là những kẻ phạm tội, phải bị trừng phạt bởi luật pháp, nhưng trong Ca-tô Giáo họ vẫn là “Chúa thứ hai”, vẫn là các “đức cha”.  Hơn nữa, các bề trên của họ đã cố sức bao che dấu diếm cho đến khi không còn bao che được nữa, và ở một số cộng đồng Ca-tô ngu muội, chậm tiến thì các con chiên không dám ho he trước những hành động đồi bại của các “Cha”.  Bởi vậy mà đã có một ông Giám Mục Mít dạy con chiên: “Các con đừng nói hành các cha mà mang tội với Chúa”.  Mặt khác, khi họ đi giết người ngoại đạo, những kẻ dị giáo, những phù thủy v.v... là họ theo đúng lời dạy trong Thánh Kinh.  Vì thế chúng ta có mang họ ra để chỉ trích thì chẳng qua cũng chỉ là phù hợp với những tiêu chuẩn đạo đức thế gian, dù những việc vô đạo đức mà họ làm là theo tiêu chuẩn của Gót, thần linh.  Mấy kẻ cuồng tín Ca-tô đang cố sức đánh phá Phật Giáo nên nhớ kỹ sự khác biệt giữa Phật Giáo và Ca-tô Giáo.  Những việc ác đức của Ca-tô Giáo đối với nhân loại có nguồn gốc từ Thánh Kinh và chủ trương của những kẻ buôn thần bán thánh.  Những việc này đều bị thế giới lên án vì tiêu chuẩn đạo đức thế gian không cho phép. Còn những việc đi ra ngoài tiêu chuẩn tu tập của Phật Giáo là vì cá nhân tu chưa trót hay giả tu, không liên quan gì đến Kinh điển Phật Giáo hay do chỉ đạo của các cao Tăng.  Phật Giáo lên án những kẻ mượn danh Phật Giáo để mưu đồ dục vọng cá nhân, tuy những dục vọng cá nhân này không vi phạm pháp luật thế gian.  Do đó, chống Ca-tô Giáo là có cơ sở để chống, còn chống Phật Giáo chỉ là những chuyện ngoài Phật Giáo. 
   Nhưng thực ra chẳng có ai chống Ca-tô Giáo cả, tất cả đều là những phán xét, lên án Ca-tô Giáo chứ không phải là chống.  Gần đây Duyên Sinh có phổ biến bài “Cái Chết Của Một Tôn Giáo Lớn”, rồihttp://sachhiem.net/LTX/LyThaiTS10.php cũng phổ biến bài Tổng hợp của Lý Thái về Tuyên bố của Tòa Án Quốc Tế Xét Xử Tội Ác Của Giáo Hội và Chính Quyền (ITCCS) lên án: Giáo Hội Ca Tô Rô Ma Là Một Tổ Chức Tội Phạm Quốc Tế . Trong bài này, Lý Thái cho đọc giả và các con chiên Ca-tô biết vài thông tin:
 -  Ngày 12 Tháng Chín năm 2011 tại Luân Đôn, ITCCS đã ban hành một trát tòa gửi đến Joseph Ratzinger (hay còn gọi là "Giáo Hoàng Benedict 16") và sáu hồng y cao cấp trong Tổ Hợp Giáo hội Công giáo La Mã, xuất hiện trước phiên họp khai mạc của tòa án ITCCS.
 - Tiếp đó, một trát tòa đã được ban hành cho Giáo Hoàng Francis 1 ngày 1 tháng 8, 2013. (Xin bấm vào link để xem ảnh chụp trát tòa)
     Mấy con chiên đại trí thức Việt Nam và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đâu, hãy lên tiếng để bảo vệ mấy “đức thánh cha” và “hội thánh” của mình.  Sự yếu kém trí thức của một số con chiên Ca-tô là mỗi khi phải đối diện với những sự thật về Ca-tô Giáo, thay vì có đủ khả năng thì phản biện, thì họ lại quay ra chống Cộng, phần lớn là vô căn cứ, chỉ là tuyên truyền một chiều, hoặc mang vài trường hợp cá nhân trong Phật Giáo để phê bình Phật Giáo, tưởng rằng như vậy là đã trả đũa được tác giả viết về Ca-tô Giáo, hoặc có thể chối bỏ được những sự thật về Ca-tô giáo.

       Nếu những trí thức Ca-tô như Lữ Giang, Chu Tất Tiến, Vũ Linh Châu, Hồng Lĩnh, Nguyễn văn Lục v.v…, đối diện với những sự thật về Ca-tô giáo mà vẫn không biết xấu hổ, biết ngượng, vẫn cho mình là ở trong một “hội thánh”, thì mỗi khi tôi nhìn thấy hình của họ trên Internet, tới nay mới chỉ thấy có Lữ Giang và Chu Tất Tiến, tôi cũng cảm thấy xấu hổ và ngượng thay cho họ.  Những bộ mặt vô tôn giáo, giả nhân giả nghĩa, từ giáo hoàng trở xuống, đã bị phanh phui ra trước thế giới, không còn có thể che đậy được nữa, nhưng đối với con chiên Việt Nam thì Giáo hội Ca-tô vẫn là một “hội thánh” như được viết trên các trang nhà Ca-tô giáo một cách không ngượng ngùng.  Điển hình là trên VietCatholic ta có thể đọc những câu đại khái như “Đường “hội thánh” đi là đường vinh quang” bất kể đến cái lịch sử ô nhục của cái gọi là “hội thánh” Ca-tô.  Tôi không hiểu vinh quang ở chỗ nào, thật là tội nghiệp. Thật là nhục nhã, một tôn giáo mà bị coi là một “Tổ Chức Tội Phạm Quốc Tế” trước thế giới, và các “Đại diện của Chúa” cũng như các “Chúa thứ hai” bị truy tố ra tòa xét xử thì còn gì là mặt mũi nữa. Thay vì ngẩng mặt lên trong vinh quang thì người Ca-tô, một khi còn ở trong cái gọi là “hội thánh” đó, nên cúi mặt trước các tôn giáo khác, vì với những sự thật lịch sử đồi bại của Ca-tô giáo, không còn mặt mũi nào trước Tam Giáo.  Đó là thái độ thích hợp nhất đối với những người còn đôi chút liêm sỉ.   Đọc giả sẽ hiểu là tại sao tôi không bao giờ chấp nhận mặt đối mặt, đối thoại với những hạng người không biết gì là liêm sỉ.