Tôn giáo không chỉ là hình thái ý thức xã hội mà còn là thực thể xã hội tồn tại với các đặc trưng: hệ thống giáo lý, chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự. Vì vậy, giữa tôn giáo và dân tộc có mối quan hệ gắn bó mật thiết hỗ trợ và tác động lẫn nhau. Không có tôn giáo nào tồn tại ngoài quốc gia dân tộc, đương nhiên nó phải chịu sự tác động của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của chính dân tộc đó. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, có tôn giáo nội sinh, có tôn giáo ngoại nhập, có tôn giáo đa quốc gia, có tôn giáo chỉ riêng Việt Nam. Đặt tôn giáo trong mối quan hệ với dân tộc từ đó có sự nhìn nhận đúng đắn về quan điểm của chính quyền và một số hoạt động của giáo hội Thiên chúa ở Việt Nam trong thời gian qua là cần thiết để thấy bản chất của vấn đề.
Việc nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo ở mỗi quốc gia là không giống nhau, điều đó phụ thuộc vào bản chất của chế độ, được cụ thể bằng quan điểm của nhà cầm quyền. Ở Việt Nam, quan điểm tôn giáo đồng hành cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thể hiện “thực thể xã hội” này là một bộ phận đóng góp tích cực cho công cuộc đổi mới của đất nước, và trên hết tôn giáo phải phục vụ lợi ích của dân tộc, nhân dân. Tuy nhiên, trong thời gian qua, Giáo hội Thiên chúa luôn có vấn đề trong quan hệ với nhà nước, gồm nhiều vấn đề tồn tại chưa giải quyết và những vấn đề mới phát sinh, ở một số lãnh vực nảy sinh mâu thuẫn, có nơi bộc lộ mâu thuẫn nóng, so với tôn giáo khác luôn có những yêu sách, đòi hỏi không phù hợp với chủ trương chính sách của Nhà nước.Điều này đã làm ảnh hưởng uy tín của giáo hội, đi ngược lại với lợi ích của dân tộc, là mảnh đất màu mỡ cho các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, vu cáo, thổi phồng thành những điểm nóng để gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Không thể phủ nhận những giá trị tích cực cho xã hội của tôn giáo về mặt đạo đức, từ thiện xã hội, tạo sự liên kết trong cộng đồng… với tư cách đây là những giá trị phù hợp truyền thống dân tộc, với tính nhân văn của CNXH mà mục tiêu của đất nước đang hướng đến. Tuy vậy, “cái thực thể xã hội” vận động trong quá trình phát triển chung của đất nước ấy vẫn còn những điều làm chúng ta phải suy nghĩ. Điển hình trong thời gian qua là việc tranh chấp, đòi lại đất đai của giáo hội Thiên chúa (giáo hội chưa bao giờ sở hữu hợp pháp); Bản góp ý sửa đổi Hiến pháp của Hội đồng giám mục Việt Nam (đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp, thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng…)… Nhìn nhận bản chất của vấn đề có thể nhận thấy:
Giáo hội đã đặt tôn giáo (lợi ích giáo hội, Vatican) cao hơn dân tộc để đáp ứng những yêu cầu vô lý: đòi tự do tôn giáo tuyệt đối, lấn lướt chính quyền để ra yêu sách. Lịch sử chứng minh có hàng triệu người phải chết vì các cuộc Thập tự chinh của giáo hội Thiên chúa mà ở đây thần quyền che phủ, lấn át chính quyền. Khi tôn giáo đặt lợi ích của giáo hội trên lợi ích của dân tộc, nhân dân đồng nghĩa với việc đưa một bộ phận con chiên cuồng tín tách biệt, chia rẽ với đa số tín đồ Thiên chúa sống phúc âm trong lòng dân tộc, kích động chủ nghĩa tôn giáo cực đoan như vụ tranh chấp xẩy ra tại giáo xứ Thái Hà, 42 Nhà Chung; gây rối tại Con Cuông, Nghệ An… điều này xa lạ với tính nhập thế của các tôn giáo ở Việt Nam, luôn gắn liền với tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc và xây dựng một xã hội công bằng vì hạnh phúc của mọi người.
Là con Chúa, không được phép làm chuyện phản lại luật pháp chính đáng được quy định bởi chính quyền, bởi luật pháp của mỗi quốc gia nhằm lợi ích chung của con người hay sự trật tự trong tổ chức xã hội. Còn theo Thánh Tôma Aquinô, luật pháp công chính là nhằm xây dựng và bảo vệ công ích như hòa bình, công lý xã hội. Khi mang tính cách công chính như thế, công quyền và luật pháp xã hội phản ảnh ý định của Thiên Chúa và các lề luật vĩnh hằng của Ngài... Sự bất tuân luật pháp công chính là tội, và đó là tội trọng. Vì hành động ấy nguy hại cho công lý, bác ái xã hội và phản nghịch ý định tốt đẹp của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cũng khẳng định: “Ai chống đối luật pháp công quyền là phản nghịch chương trình Thiên Chúa thiết định. Kẻ ấy sẽ phải chuốc lấy án phạt cho mình”. Theo thời gian thì hầu hết mọi kẻ phạm tội ác đều biết hối hận sau khi tâm hồn lắng xuống. Nhưng điều nguy hiểm là những kẻ cuồng tín tôn giáo phạm tội ác đều không biết hối hận vì chính họ không nhận ra tội ác của họ. Do đó, sự cuồng tín mới đích thực là một tội ác nguy hiểm và đáng sợ nhất vì kẻ cuồng tín không biết hối hận. Vì vậy, kích động chủ nghĩa tôn giáo cực đoan đã trở thành chủ nghĩa vô nhân đạo.
Là dân tộc yêu chuộng hòa bình, bỏ qua hết lịch sử mà dẫn chứng là Giáo Hoàng John Paul II đã mạnh dạn sám hối với nhân loại về 7 núi tội mà Giáo Hội Công Giáo La Mã đã gây ra trong suốt hai ngàn năm truyền giáo,nhưng ngược lại giáo hội Thiên chúa Việt Nam chưa có một lời ăn năn với tổ quốc. Đi ngược lại với sứ điệp của giáo hoàng, một số giáo sỹ cực đoan lợi dụng niềm tin tôn giáo làm bình phong cho các hoạt động chính trị của mình.
Thiên chúa giáo là tôn giáo toàn cầu, có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng tôi tin ở bất kỳ quốc gia nào tôn giáo không thể là lực lượng đi ngược lại với lợi ích tổ quốc trừ một số trở thành lực lượng đối lập đòi ly khai tách khỏi cộng đồng quốc gia dân tộc hoặc thực hiện các hoạt động chống phá mà vẫn thường núp dưới danh nghĩa bảo vệ nước Chúa. Người Công giáo không thể cùng một lúc vừa trung thành với Vatican, vừa trung thành với tổ quốc. Bất cứ ai tuyệt đối trung thành với Vatican, đứng trên lợi ích của dân tộc cũng đều đương nhiên trở thành kẻ phản quốc. Điều này đã trở thành một định luật.
Vì vậy, cần phải khẳng định: không thể đặt tôn giáo lên trên lợi ích của tổ quốc.
HOA ĐẤT
|