Tổng số lượt KHÁCH xem trang

THUỐC CHỐNG RỤNG HOA/BÔNG MAI, BÔNG GIẤY, SỨ THÁI LAN, ĐỖ QUYÊN (SUPER A..Z)


THUỐC CHỐNG RỤNG HOA/BÔNG MAI, BÔNG GIẤY, SỨ THÁI LAN, ĐỖ QUYÊN (SUPER A..Z)

Thuốc chống rụng bông mai của chúng tôi đã có mặt ở thị trường Tây Nam bộ từ những năm '90 của thế kỷ trước và đến năm đầu tiên của thiên niên kỷ nầy Bộ Nông Nghiệp & PTNT với quyết định QĐ 6523/QĐ-BNN-KHCN ngày 19/12/2001 đã “CÔNG NHẬN SẢN PHẨM NẦY LÀ MỘT BIỆN PHÁP KỸ THUẬT MỚI ĐƯỢC PHÉP SẢN XUẤT, KINH DOANH VÀ XUẤT KHẨU THEO QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH” và tiếp theo đó đã đưa sản phẩm nầy vào”DANH MỤC PHÂN BÓN ĐƯỢC PHÉP SẢN XUẤT, KINH DOANH VÀ SỬ DỤNG Ở VIỆT NAM ” liên tục cho đến ngày nayNhư vậy cho đến thời điểm nầy, chỉ có Thuốc chống rụngbông mai Super A-Z của DNTN THẢO TRÂM là được Bộ NN&PTNT côngnhận đạt hiệu quả kỹ thuật cao và tính pháp lý của sản phẩm thuốc chống rụng bông mai là một sản phẩm độc đáo của DNTN THẢO TRÂM được bà con xa gần trong cả nước biết đến hơn 20 năm qua nhất là khu vực Nam bộ, nơi mà thị trường sản xuất và tiêu thụ hoa mai mạnh nhất trong cả nước.Thuốc đã qua thử thách hằng chục năm rồi

xem chi tiết>>>


Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

Tội Ác Diệt Chủng Ở Nước Chủ Hầu Croatia 1941-1945

Tội Ác Diệt Chủng Ở Nước Chư Hầu Croatia 1941-1945
“Genocide in Satellite Croatia 1941-1945”
Trần văn Kha
 18-Feb-2014

I. MỞ ĐẦU- ĐỌC KINH THÁNH.
Copyright © Srpska Mreza 1998 a) Ai dâng đồ cúng cho bất cứ thần nào không phải Jehovah mà thôi thì đều phải bị tiêu diệt. ( Exodus 22: 20. One who sacrifices to any gods but Jehovah alone is to be devoted to destruction).
b) “Các con phải đạp đổ bàn thờ của chúng, phá tan những cây cột thiêng liêng của chúng, cắt ra từng khúc những cây sào thiêng liêng của chúng. Các con không được quỳ lạy bất cứ một thượng đế nào, vì Jehovah, có tên là Ghen Tương, là một Thượng Đế ghen tương”. (Exodus 34:13. But their altars You people are to pull down, and their sacred pillars You are to shatter, and their sacred poles You are to cut down. 14. For You must not prostate yourself to another god, because Jehovah, whose name is Jealous, he is a jealous God. )
Thi hành những giáo điều trên, “Giáo hội đã dùng rất nhiều thì giờ vào việc tiêu diệt những người không chịu đổi đạo sang Ca-tô, hay những người gọi là tà giáo đã dám đương nhiên chủ trương những học thuyết khác với học thuyết của Giáo hoàng – Giáo hội có khi còn xâm phạm
vào những vấn đề khoa học mà Giáo hội không biết gì, tỉ dụ như, vào thời Galilée, vấn đề là để coi xem trái đất có xoay xung quanh nó hay không”. (L’Eglise a passeù son temps aø exterminer ceux qui refusaient de se convertir au christianisme, ou les heùreùtiques qui se permettaient de professer des theùories diffeùrentes de celles du Pape – voire meâme aø se meâler de questions scientifiques auxquelles l’Eglise n’entendait rien, par exemple, au temps de Galilée, la question de savoir si la terre tournait sur elle-même ou pas. – “Le Moine et le Philosophe”, pages 224-25).
Thượng Đế ghen tương. Ghen với ai ? Nói về ghen tương, thì người ta chỉ có thể ghen với người ngang hàng, hay những người ở trên. Khi tuyên bố ta là “Thượng Đế ghen tương”, điều này cho thấy trên thế giới có nhiều thượng đế khác nhau, và thượng đế của Gíao hội Ca-tô Rô-ma, của Israel chỉ là một. Điều này có ghi rất rõ trong Kinh Thánh: Điểm quyết định của Leviticus 25 là sự nhắc lại thường xuyên lời tuyên bố đức tin của Israel vào Thượng Đế, Ngài đã giải thoát cho dân của Ngài trong cuộc Di Cư (Exodus). “Ta, là Chúa, là Thượng Đế của các người, đã đem các người ra khỏi đất Ai-cập để cho các người đất Canaan và là Thượng Đế của các người” (Lv 25:38; cf. Vss 42,45). (Decisive for Leviticus 25 is the regular repetition of Israel’s profession of faith in God who had liberated his people in the Exodus. “I, the Lord, am your God, who brought you out of the land of Egypt to give you the land of Canaan and to be your God”).
Tín đồ Ca-tô giết người dã man là họ làm theo giáo điều ghi trong Kinh Thánh được bảo là lời Thượng Đế không bao giờ sai lầm. Những lời độc ác ấy không thể là lời Thượng Đế, mà là do những người viết Kinh Thánh bịa đặt ra, nhưng để có thêm sức hấp dẫn, họ bảo đó là lời Thượng Đế. Ở thời đại văn minh hiện tại, Kinh Thánh không còn chỗ đứng.
Ken Simmonds (South Africa): Giáo hội Ca-tô Rô-ma là một chế độ độc tài hoàn toàn lỗi thời, phổ biến một học thuyết và giáo điều không còn đáp ứng cho nhu cầu và thực ra là vô giá trị trong thế giới hiện đại. Việc cải tổ đạo Ca-tô Rô-ma đến tận cỗi rễ đáng lẽ phải làm từ lâu. 
 (The Roman Catholic Church is a totally out of date autocracy, propagating a doctrine and dogma that no longer meets a need and which is actually of negative value in the modern world. Roman Catholicism is grossly overdue for radical reform, “Tôn Giáo Đối Chiếu IV”, trang 1883 và “Thời Đại Mới II”, trang 378).
Trong thư ngỏ gửi Gíao Hòang John Paul II trong sách John Paul II (ấn bản năm 2000) chúng tôi có đề nghị xóa bỏ hai giáo điều nêu trên, nếu có việc xét lại Kinh Thánh. Gíao Hòang John Paul II tuy không lập ra một hội đồng xét lại Kinh Thánh, nhưng chính Ngài đã xét lại Kinh Thánh và tuyên bố, “không có hỏa ngục, không có thiên đàng”, làm cho Giuse Phạm hữu Tạo, một người theo đạo Ca-tô Rô-ma, sợ quá khóc thét lên: 
“Cho nên sau khi chết, vì không có hỏa ngục hay thiên đàng, phải chăng như thế là một sự gian trá dối gạt. Khiến cho tất cả những hồn ma già trẻ đều trở thành những con ma “homeless” (vô gia cư), xếp vào hàng thứ mười một trong Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du, được ghi danh trong danh sách phụ được ăn cháo lú”. (“Đông Dương Thời Báo”, số 77, tháng 4 & 5 năm 2000, trang 9).
Nhưng Kinh Thánh mà sửa đổi thì không còn gì gọi là Kinh Thánh. Sửa đổi hay không sửa đổi Kinh Thánh thì đạo Ca-tô cũng đang bị giải thể. Sau đây là nhận định của hai người Pháp: - “Nói một cách rõ hơn, điều này có nghĩa là ở Pháp, văn hóa Ca-tô đang trên đà biến mất. (En clair, cela signifie qu’en France, la culture catholique est en voie de disparition.- Robert Serrou, báo Paris Match.- Trích ra từ “John Paul II”, trang 302-303 ).
Giáo hội này ngày nay sụp đổ được cai quản bởi một Giáo hoàng kiểu Trung cổ, thì theo ý tôi, dù có thay đổi kỹ thuật, Người cũng không thể làm gì hơn được, để ngăn chặn cho nó không biến mất trên thực tế và rất mau vào thiên niên kỷ Thứ ba, ít ra là dưới hình thức Rô-ma của nó. Một lời tiên tri bi thảm. Một sự chẩn bệnh đau đớn”.
 (Cette Église qui, aujourd’hui s’effondre est régie par un pontife de type médiéval qui, même s’il amendait sa technique, ne peut plus rien, à mon sens, pour l’empêcher de disparaitre, pratiquement et assez vite au cours du IIIième millénaire, du moins sous sa forme romaine. Tragique prophétie. Sinistre diagnostic.- Henri Guillemin, báo Paris Match.- Trích ra từ  “Phá Ngục Tù”, trang 246).
Không muốn bị lừa gạt lâu hơn nữa, không còn sợ cái hỏa ngục mà Gíao Hội đem ra hù dọa, tín đồ Ca-tô trên thế giới đã tỉnh ngộ, không còn muốn làm lòai vật, làm con chiên để cho linh mục của Gíao Hội cầm gậy chăn dắt, họ đứng lên trở lại làm người, bỏ đạo càng ngày càng nhiều.
http://giaodiemonline.com/2013/10/images/dietchung01.jpg
TGM Stepinac (Zagreb Archbishop Aloysius Stepinac (right),
  at an official Croatian ceremony in 1941),
Link: http://www.reformation.org/stepinac.html
II. TỘI ÁC DIỆT CHỦNG.
Những tài liệu sau đây rút ra từ những nguồn tin khác nhau đều mô tả những tàn sát dã man nhất trong thời đại của chúng ta, mà không ai có thể tưởng tượng ra được, lại do tín đồ Ca-tô Rơ-ma thi hành.
1.- Tài liệu của “Internet”
a) Curzio Malaparte.
Curzio Malaparte, một trong những nhà văn Ý rất nổi tiếng, có tầm vóc quốc tế, đã viết sách “Kaputt”, nhà xuất bản Rome-Milan (Ấn bản 10). Sách này được phát hành ở New York, London, Barcelona, Rio de Janeiro, Brussels, Belgrade… Trong sách của ông, Malaparte mô tả chuyến viếng thăm Ante Pavelic, người lãnh đạo Ustashi:
“Trong khi họ nói chuyện, tôi nhận thấy một cái giỏ mây ở phía bên trái bàn của Pavelic. Cái nắp hơi nâng cao: Tôi có thể nhìn thấy cái giỏ đầy những trái biển. Ít nhất, tôi nghĩ là như thế. Trông giống như những con sò nhưng đã lấy ra khỏi vỏ, những con sò mà thỉnh thoảng quý vị vẫn thấy để ở trong những đĩa to ở Fortnumm và Mason, ở Picadilly Luân-đôn”. Casertano nhìn tôi và đưa mắt ra hiệu:
“Anh có muốn ăn súp sò không?
Đó có phải là loại sò ở Dalmatia không? Tôi hỏi Pavelic.
Ante Pavelic nhấc cái nắp đậy ra và chỉ cho tôi trái biển, cái đống nó dính vào nhau như là thạch, rồi cười với một điệu bộ thành thực và mệt mỏi, ông bảo:
“Đó là món quà của những người Ustashi trung thành của tôi, 20 ki-lô mắt người.”
(Curzio Malaparte, one of the most famous Italian writers who attained world fame, wrote the book “Kaputt”, Roma-Milano (Decima edizione). The book was published in New York, London, Barcelona, Rio de Janeiro, Brussels, Belgrade… In his book Malaparte describes his visit to Ante Pavelic, the leader of Ustashi:
“While they were talking I noticed a cane basket on the left hand side of the Pavelic’s desk. The cover was slightly raised: I could see that the basket was full of sea fruit. At least, that is what I thought it was. It looked like oysters but extracted from the shells, like the ones that you sometimes can see served on large plates at Fortnumm and Mason, in Picadilly in London”. Casertano looked at me and gave me a sign with his eyes:
“How would you like to have some oyster soup?”
“Are they Dalmatian oysters?” I asked Pavelic.
Ante Pavelic took the lid off the basket and showed me the sea fruit, that sticky and jelly-like mass, and then said, laughing with his frank and tired laughter:
“This is the gift from my faithful Ustashi, twenty kilos of human eyes”.)
Copyright © Srpska Mreza 1998
Copyright © Srpska Mreza 1998 
(http://www.srpska-mreza.com/Croatia/Sakic/history3.htm)
b) Trích dẫn bản báo cáo của Chỉ huy Đoàn quân Ý “Sasari”: “Những tội ác khủng khiếp mà lính Ustashi đã đổ lên đầu những người con gái Serbian bé nhỏ không thể nào tả được bằng lời. Hàng trăm tấm hình xác nhận những việc này, vì có những bé gái sống sót cuộc tra tấn: những dấu đâm bằng lưỡi lê, lôi kéo lưỡi và răng, móng tay và đầu vú (tất cả những hành hạ này được thực hiện sau khi các bé gái đã bị hiếp dâm), được các sĩ quan của chúng tôi đem về những bệnh viện Ý mà tại đó tài liệu và sự kiện được thâu góp”.
 (Excerpts from the report of the Commander of the Italian “Sasari”: “The horrors that the Ustashi have committed over the Serbian small girls is beyond words. There are hundred of photographs confirming these deeds because those of them who have survived the torture: bayonnetted hits, pulling of tongues and teeth, nails and breast tips (all this having been done after they were raped), were taken in by our officers and transported to Italian hospitals where these documents and facts were gathered.”)
2.- Tài liệu của Avro Manhattan,
(http://en.wikipedia.org/wiki/Avro_Manhattan ) sách “The Vatican’s Holocaust”:
a)  “Một người Serb Chính Thống Giáo còn sống đã bị ném xuống mồ chôn tập thể, ở trại tập trung nổi tiếng Jasenovac, năm 1942”. (An Orthodox Serb being thrown alive into a mass grave in the notorious concentration camp of Jasenovac, in 1942. Page 38).
 
Avro Manhattan (1914-1990),
link: http://www.reformation.org/holocaus.html
(SH -Xin đọc bài "Vài Ý Kiến Về Video Vatican Holocaust" của GS Trần Chung Ngọc ở nguồn link như sau:
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN146_holocaus.php)
b) “Sự tàn bạo chính trị và tôn giáo của ông ta (cha Filipovic) có thể được xét đoán bởi sự kiện là, trong lúc nói chuyện với một tiểu đoàn Ustashi võ trang ở làng Drakulic, ông ta đã tự tay giết một đứa bé Chính Thống Giáo”.
(His political and religious ruthlessness can be judged by the fact that, while adressing a battalion of the armed Ustashi in the village of Drakulic, he killed an Orthodox child with his own hands.- Page 72).
3.- Tài Liệu từ Sách “Genocide in Satellite Croatia 1941-1945”, by Edmond Paris.
 
Bìa trong quyển sách:
Sách này là một liều thuốc mạnh, và bất cứ ai đọc sách ấy phải chuẩn bị là sẽ bị chấn động và hết sức xúc động.
Sách này mô tả chuyện giết người tập thể và hành hạ tập thể dân Serbs theo Chính Thống Giáo ở nước Croatia, chư hầu Đức quốc xã, trong những năm 1941-1945. Trong cố gắng tàn sát tập thể ấy, khoảng 750.000 người Serbs – đàn ông, đàn bà và con nít – đã bị giết chết, cùng với đa số những tu sĩ và giáo hội của họ. Những người Do-thái tuy rằng dân số ít hơn người Serbs cũng chịu chung số phận.
Việc tàn sát có tổ chức và tàn bạo đã trong nhiều trường hợp đi quá mức đến nỗi chính người Đức quốc xã cũng không thể chấp nhận được. Những người phạm những tội ác đó là Ustashi, một phong trào phát-xít Đức dưới sự lãnh đạo của nhân vật nổi tiếng Ante Pavelic. Theo tỉ lệ dân số, những bù nhìn Đức quốc xã đã vượt qua những tàn sát mà chính Đức quốc xã đã làm ở bên Đức. Và với những người không bị thủ tiêu, thì họ tìm cách – bằng máu và lửa – bắt phải đổi đạo sang Ca-tô La-mã.

Những hình ảnh rùng rợn trong vụ thảm sát ở Satellite, Croatia
Sự việc gây phẫn nộ là những người Ustashi đã được tích cực giúp đỡ trong công việc tiêu diệt và hành hạ ma quái ấy bởi một thành phần đáng kể những tu sĩ Ca-tô Croatian, mà nhiều người cũng là nhân viên trong tổ chức Ustashi. Đây không phải là một sự kết tội mù quáng của tác giả, bởi vì ông đã kể ra những tên, địa điểm, và thường sử dụng những nguồn tin của chính Ustashi. Sách này là một liều thuốc mạnh, và bất cứ ai đọc sách ấy phải chuẩn bị là sẽ bị chấn động và hết sức xúc động.
This book portrays a shocking record of mass slaughter and massive persecution of the Serbian Orthodox population in the Nazi puppet state of Croatia in the years of 1941-1945. In this mass extermination effort some 750.000 Serbs – men, women and children – perished, along with most of their clergymen and their churches. The Jews although much less numerous than the Serbs met the same fate.
These systematic and brutal massacres were at times even too much for the Nazis to tolerate. The perpetrators of these crimes are the Croatian Ustashi, a nazi-fascist movement under the leadership of the notorious Ante Pavelich. In proportion to the population, the Nazi puppets exceeded even what the nazis themselves had done in Germany. And those that they did not exterminate, they sought – by fire and sword – to convert to Roman Catholicism.
The revolting fact is that the Ustashi were actively aided in their diabolical work of extermination and persecution by sizable segments of the Croatian Catholic clergy, many of those members were also members of the Ustashi organization. This is not a blind charge by the author, for he cites names and places, frequently using their own sources. This book is strong medicine, and any one who reads it must be prepared to come away shocked and deeply disturbed).
Trang Bìa Sau (Về tác giả):
Edmond Paris sinh ở Paris trong một gia đình đại học theo đạo Ca-tô La-mã. Với một tinh thần cởi mở và tích cực trong mọi vấn đề liên quan tới triết học, tôn giáo và xã hội, ông chuyên cần theo học các lớp ở Sorbonne, hoàn tất chương trình giáo dục với những ngày nội trú ở các trung tâm trí thức khác nhau, như Rome, Geneva, Salamanca, và Montreal. Luôn luôn thận trọng khi tiếp xúc với thực tế, ông đi thăm viếng nhiều nơi, so sánh những quan niệm mà ông đã học hỏi với “kinh nghiệm thực tế”.
Cộng với sở học rộng rãi của ông là lòng yêu mến sự thật, và điều này được thấy rõ trong sách của ông cũng như trong những bài diễn giảng, những thứ đó làm cho ông trở thành một triết gia lịch sử, một người viết không bị ràng buộc bởi bất cứ thiên kiến nào, và là một người quan sát sâu sắc trong thời đại của ông ta.
(Back Cover (About the author):  
Edmond Paris was born in Paris of a university family of the Roman Catholic religion. Possessing a mind open and active to all kinds of philosophical, religious and social questions, he followed the courses at the Sorbonne assiduously, completing his education with sojourns in various other intellectual centers, such as Rome, Geneva, Salamanca, and Montreal. Always careful to remain in contact with reality, he traveled widely, comparing the ideas which he had acquired with “actual experience”.
Combined with his vast culture is his love for truth, and this is clearly apparent in his books as well as in his lectures, which made him a historical philosopher, a writer freed from any prejudice, and a keen observer of his epoch…).
Quyển Sách được mở đầu như sau:
Việc diệt chủng vĩ đại nhất ở Thế Chiến II, theo tỉ lệ dân số trong nước, đã xảy ra, không phải ở nước Đức của đảng Quốc Xã nhưng ở nước chư hầu quốc xã Croatia. Tại đó trong những năm 1941-1945, khoảng 750.000 người Serbs, 60.000 Do-thái và 26.000 Gypsies – đàn ông, đàn bà, và con nít – đã chết trong một lò hỏa thiêu vĩ đại. Đó là những con số được sử dụng bởi đa số tác giả ngoại quốc, đăc biệt là Đức, những người này ở một vị trí tốt nhất để biết…
… Bản chất vĩ đại và có tính cách thú vật của những sự tàn bạo ấy làm cho khó tin được rằng một việc như thế đã có thể xảy ra trong một phần thế giới được coi là văn minh…
 (The Introduction of the book starts as following:
The greatest genocide during World War II, in proportion to nation’s population, took place, not in Nazi Germany but in Nazi-created puppet state of Croatia. There in years 1941-1945, some 750,000 Serbs, 60,000 Jews and 26,000 Gypsies – men, women and children – perished in a gigantic holocaust. These are the figures used by most foreign authors, especially Germans, who were in the best position to know…
The magnitude and the bestial nature of these atrocities makes it difficult to believe that such a thing could have happened in an allegedly civilized part of the world).
Để Chúng Ta Đừng Quên…
Những con quái vật ghê tởm nhất mà thế giới được biết đến, Croatian Phát-xít.
Đường lối ưa thích của họ là móc mắt dân Serbs, Do-thái, đàn ông, đàn bà, và cả con nít!
Let we forget…
The worst monsters the world had known, Croatian fascists.
Their favorite method was to gouge eyes of Serbs and Jews, men, women and children alike!
Theo như nhà văn Ý, Curzio Malaparte, thì số mắt người bị móc ra, cân nặng 20 ki-lô.  Nếu mỗi mắt cân nặng 7.5 grams (Wikipedia), thì số người bị móc mắt sẽ là 1.333 người.
Tín đồ Ca-tô, những người cuồng tín, độc ác vì họ tin vô Kinh Thánh làm theo lời dạy trong Kinh Thánh. Kinh Thánh có ghi rất rõ:
a) “Ai dâng đồ cúng cho bất cứ thần nào không phải Jehovah mà thôi thì đều phải bị tiêu diệt”. Exodus 22:20. One who sacrifices to any gods but Jehovah alone is to be devoted to destruction.
b) “Các con phải đạp đổ bàn thờ của chúng, phá tan những cây cột thiêng liêng của chúng, cắt ra từng khúc những cây sào thiêng liêng của chúng. Các con không được quỳ lạy bất cứ một thần nào, vì Jehovah, có tên là Ghen Tương, là một Thần ghen tương”. Exodus 34:13.
But their altars You people are to pull down, and their sacred pillars You are to shatter, and their sacred poles You are to cut down. 14. For You must not prostate yourself to another god, because Jehovah, whose name is Jealous, he is a jealous God.
Tín đồ Ca-tô không biết Thượng Đế ở đâu, như thế nào, giống ai, nên họ tự động ban cho Thượng Đế những đức tính mà họ nghĩ ra, quyền năng vô biên, hiện diện ở khắp nơi, lòng lành vô cùng, Chúa chiên lành.
Chúa chiên lành là họ dịch ra từ chữ “Good Shepherd Lord”.
Bên Đức có lọai chó berger chăn chiên rất giỏi, tiếng Anh là “Good Shepherd Dog”. Con chiên nào đi lạc đường nó chạy tới sủa để con chiên đi lạc trở lại đàn.
“Good shepherd dog” nên dịch ra như thế nào? Nếu dịch là “chó chiên lành” thì không đúng. Chúng tôi đề nghị nên dịch là “chó chăn chiên tốt hay giỏi”.
“Chúa chiên lành”. Chiên/Cừu bao giờ mà không lành. Người ta lấy tông-đơ hớt lông chiên/cừu làm len, giết chiên/cừu để ăn thịt, thế mà chiên/cừu lúc nào cũng im lặng, không phản đối. Trái lại con chiên của Thiên Chúa lòng lành vô cùng, theo như tài liệu dẫn chứng ở trên lại vô cùng độc ác dã man. Họ tưởng rằng giết người khác đạo như Thiên Chúa chỉ dạy, thì sẽ được Thiên Chúa thưởng bội công cho, cho lên cái thiên đàng mà Gíao Hòang John Paul II bảo là không có ở trên mây!!!
Tín đồ Ca-tô Rô-ma ở khắp nơi trên thế giới cùng đọc một thứ Thánh Kinh dạy họ phải tiêu diệt những người khác đạo. Thánh Kinh như vậy là thủ phạm chính, Vatican rao giảng Thánh Kinh ấy là tòng phạm.
Sửa xong ngày 26, Tháng 9, 2013.
TRẦN VĂN KHA